Multimedia Đọc Báo in

Đại đoàn kết - Bài học lớn của Cách mạng Tháng Tám

06:59, 20/08/2011

Cách mạng tháng Tám năm 1945, cơn bão táp cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lật đổ ách đô hộ của thực dân Pháp đã thành công nhanh chóng. “Nhanh chóng đến mức người ta sững sờ” như nhận xét của nhà sử học Pháp Philip Đơvile, hay như nhà sử học Việt Nam, giáo sư Trần Văn Giàu: “Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công nhanh gọn, phi thường, như sét đánh, như chớp giật… Thời gian Tổng khởi nghĩa này rất ngắn, nhưng nhịp độ sống của toàn thể dân tộc Việt Nam khi ấy thì cực kỳ cao”.

Một trong những bài học lớn của cuộc Cách mạng Tháng Tám là bài học đại đoàn kết toàn dân, sự đoàn kết vĩ đại đã làm hồi sinh cả một dân tộc.

Ngay từ tháng 5-1941, trước diễn biến của tình hình trong nước và thế giới, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là lần đầu tiên, đồng chí Trường Chinh gặp Bác Hồ, người lão đồng chí hơn mình 17 tuổi, mà khi còn học ở trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương ông đã bí mật đọc “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. Trong Hội nghị này, đồng chí Trường Chinh đã được bầu làm Tổng Bí thư, khi ấy đồng chí 34 tuổi. Và một sự kiện quan trọng nữa là Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, để tập hợp và đoàn kết mau chóng lực lượng cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.

Cũng trong hội nghị này, đồng chí Hoàng Văn Thụ báo cáo rằng, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23-11-1940) nhân dân đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng năm cánh trên mái đình Long Hưng, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Đầu năm 1941, khi đồng chí Hoàng Văn Thụ lên Bắc Sơn, chị em phụ nữ Hà Nội đã thêu và gửi tặng các chiến sĩ Cứu quốc quân lá cờ đỏ sao vàng. Đồng chí đã đưa lá cờ ấy ra giới thiệu với các đại biểu, và hội nghị đã quyết định chọn là cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ của Việt Minh.

Mặt trận Việt Minh ra đời, Bác Hồ đã viết một bài diễn ca “Mười chính sách của Việt Minh” mà hai câu thơ cuối cùng là:

“Khuyên ai xin nhớ chữ Đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”

Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn.             Ảnh: T.L
Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn. (Ảnh: T.L)
Mặt trận Việt Minh kêu gọi:
“Hỡi đồng bào!
Nước Việt Nam không thể mất!
Giống Việt Nam không thể chết!
Đất nước Việt Nam này do ông cha chúng ta đổ máu mà dựng lên và truyền lại cho chúng ta, chúng ta có bổn phận hy sinh mà giữ lấy, mà làm cho nó mỗi ngày một thêm tốt đẹp…
Ai là người Việt Nam hãy phấn chấn, tự Cường, hãy tự tin tự trọng, hãy đoàn kết thống nhất dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh của Việt Minh, các bạn hãy siết chặt hàng ngũ, hô lớn:
-Thống nhất dân tộc!
-Đánh đuổi Nhật, Pháp!
-Độc lập, Tự do!”

Việt Minh kêu gọi các tầng lớp đồng bào liên hiệp lại, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, xu hướng chính trị, tất cả đoàn kết lại. Bạn trẻ thì vào Thanh niên cứu quốc quân, phụ nữ vào Phụ nữ Cứu quốc đoàn, thợ thuyền thì vào Công nhân cứu quốc hội, Dân cày thì có Nông dân cứu quốc hội, các bậc kỳ lão, phụ lão, các nhà tư sản, điền chủ thì vào Việt Nam cứu quốc hội, các nhà trí thức, văn nhân thì có Văn hóa cứu quốc hội, binh lính thì có Quân nhân cứu quốc hội, đến cả trẻ em cũng có Nhi đồng cứu vong hội.

Việt Minh là tổ chức đại đoàn kết toàn dân, và đây chính là lực lượng quần chúng mạnh mẽ nhất đã biến những ngày Tháng 8 năm 1945 thành Mùa Thu Cách mạng Việt Nam!

Đoàn kết không phải là điều mới đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ đã nói: “Đó là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta”.

Trên thế giới không có dân tộc nào gọi người trong một nước là “đồng bào”. Truyền thuyết Mẹ Âu Cơ có lẽ là một truyền thuyết đẹp nhất, một bài học lớn về “Con một nhà” của ông cha ta tự nghìn xưa. Đoàn kết, yêu nước và ý thức cộng đồng đã trở thành đạo lý thường ngày của dân tộc ta. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Lúc đất nước có giặc ngoại xâm thì “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào…”. (Bình Ngô đại cáo).

Nước ta là một cộng đồng gồm 54 dân tộc anh em. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ đã nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xê Đăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng họ Chính phủ ta”. Đối với các tôn giáo, Người nói: “Các tôn giáo ra đời nói chung đều vì mục đích con người, đều nhằm cứu giúp con người thoát khỏi vòng bể khổ, giúp họ sống trong hòa bình và tự do. Chúa giáng sinh là để cứu vớt nhân loại. Chính Chúa là một tấm gương hy sinh vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình và vì công lý”. “Phật ra đời cũng chính là để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha…” (có nghĩa là đem lại vui sướng cho dân chúng, quên mình vì người khác).

Nhờ chính sách Đại đoàn kết ấy mà ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được nhiều nhân tài cho đất nước. Không chỉ những trí thức bậc cao, mà cả những nhân sĩ yêu nước, những khâm sai đại thần của chế độ phong kiến, những người làm việc bên cạnh nhà vua phong kiến… cũng tự nguyện đi theo Cách mạng, đi theo Cụ Hồ. Cụ Phan Kế Toại đã nói: “Cụ Hồ đúng là một ngọn núi nam châm khổng lồ!”. Cái sức hút vĩ đại ấy của Bác chính là chính sách Đại đoàn kết toàn dân của Đảng và Nhà nước ta, mà Hồ Chủ tịch là người tiêu biểu.

Với chính sách Đại đoàn kết của Đảng và Hồ Chủ tịch, Cách mạng Việt Nam đã trải qua những trang lịch sử hào hùng. Không ai ngờ rằng, Bản Tuyên ngôn Độc lập mà Bác đã đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử lại được Bác viết trong căn nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô. Và năm 1946 khi sang thăm Pháp, Bác Hồ đã trao lại quyền Chủ tịch nước cho một nhân sĩ yêu nước ngoài Đảng là cụ Huỳnh Thúc Kháng với niềm tin tưởng tuyệt đối vào con người, và lời dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam từ một nước thuộc địa đã trở thành người chủ đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc. Đó là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của một dân tộc thuộc địa đã tự giải phóng mình khỏi ách đế quốc thực dân, đứng vào hàng ngũ các dân tộc cách mạng trên thế giới.

Ngày 14-7-1969, chưa đầy hai tháng trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp đồng chí Mác-ta Rô-hát, phóng viên báo Granma Cu Ba, Bác nói: “Đồng chí hỏi rằng, theo ý kiến tôi, sức mạnh của nhân dân Việt Nam là ở chỗ nào? Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới”.

Trước khi đi xa, trong Di chúc của mình, mặc dù phải dặn lại rất nhiều công việc quan trọng, Bác đã viết đến 8 chữ Đoàn kết: Đoàn kết chặt chẽ, Đoàn kết nhất trí, Đoàn kết và thống nhất, Đoàn kết phấn đấu,… Đặc biệt, trong phần nói về Đảng, Bác đã nhắc đến 5 chữ Đoàn kết, bởi vì đoàn kết toàn Đảng chính là nền tảng để đoàn kết toàn dân.

Tư tưởng Đại đoàn kết, với nội dung và chất lượng mới, đang trở thành ngọn cờ chỉ đạo cho công tác vận động cách mạng nói chung và cho công tác Mặt trận nói riêng trong thời kỳ mới. Đúng như câu thơ Bác Hồ đã viết:

Nước nhà giành lại nhờ gan Sắt
Sự nghiệp làm nên bởi chữ Đồng"
Bùi Công Bính

Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.