Multimedia Đọc Báo in

Người làm rạng danh nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam

14:44, 25/09/2023

Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa tên khai sinh là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 trong một gia đình giáo chức nghèo tại xã Chánh Hiệp (nay là xã Hòa Hiệp), huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Cha ông là Phạm Văn Mùi, một nhà nho uyên thâm, một nhà giáo giàu lòng nhân ái nhưng mất sớm. Từ nhỏ, Trần Đại Nghĩa luôn coi lễ nghĩa làm trọng, là thước đo lẽ sống ở đời. Lời khuyên của cha ông trước lúc lâm chung rằng “con phải ráng học, chỉ có học mới thoát nghèo và có học sau này có việc làm giúp ích cho gia đình và xã hội” luôn khắc sâu trong tâm trí của ông.

Học để về giúp ích cho nước nhà

Năm 1926, lúc mới 13 tuổi, Phạm Quang Lễ thi đỗ hạng ưu vào Trường Trung học Đệ nhất cấp Mỹ Tho, được nhận học bổng trong 4 năm học (1926 - 1930). Năm 1930, ông thi đỗ vào Trường Petrus Ký và được nhận học bổng 3 năm liền. Năm 20 tuổi (1933), ông đỗ thủ khoa cả Tú tài bản xứ và Tú tài Tây. Tháng 9/1935, Phạm Quang Lễ sang Pháp du học khi tròn 22 tuổi. Bằng trí thông minh và nghị lực của mình, sau 9 tháng học dự bị, Phạm Quang Lễ thi đậu xuất sắc vào Trường Đại học Cầu đường Paris và được học bổng toàn phần của Chính phủ Pháp. Cùng thời gian đó, ông còn học thêm ở Trường Cao đẳng Kỹ thuật Paris và Trường Đại học Sorbonne.

Năm 1940, Phạm Quang Lễ nhận cùng một lúc ba bằng tốt nghiệp: Kỹ sư cầu đường, Kỹ sư điện và Cử nhân Toán. Sau đó, ông còn học tiếp và nhận thêm ba bằng khác: Kỹ sư hàng không, Kỹ sư mỏ - địa chất và Kỹ sư chế tạo máy.

Giáo sư Trần Đại Nghĩa (đeo kính) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bên phải) tại Triển lãm vũ khí của ngành quân giới, năm 1950. Ảnh tư liệu

Thời gian ở Pháp, ông đã làm việc tại Hãng điện khí Thomson, Viện Nghiên cứu chế tạo máy bay và vũ khí của Pháp. Năm 1939, làm kỹ sư trưởng Nhà máy nghiên cứu chế tạo máy bay hãng Nord Aviation (Pháp). Năm 1944, ông bắt đầu tham gia Hội Việt Nam ái hữu tại Pháp.

Suốt 11 năm bền bỉ, âm thầm nghiên cứu, thông qua nhiều mối quan hệ trong quá trình làm việc ở các nơi như Viện Nghiên cứu vũ khí, xưởng chế tạo vũ khí, máy bay..., của Pháp và Đức, Phạm Quang Lễ không ngừng tìm kiếm các bí mật quân sự, các bản thiết kế vũ khí mới. Kết quả của sự lao động miệt mài đó là hơn 30.000 trang tài liệu ghi chép về chế tạo vũ khí, hầu hết là “tuyệt mật” đã được ông thu thập, cất giữ nhằm chuẩn bị nền móng cho nền khoa học, công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Trong chuyến sang thăm Pháp với tư cách thượng khách vào đầu tháng 6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có dịp gặp gỡ nhiều kiều bào, nhân sĩ, trí thức người Việt đang học tập và làm việc tại Pháp để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhằm kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam, trong đó có kỹ sư Phạm Quang Lễ. Trong suốt thời gian Hồ Chủ tịch lưu trú trên đất Pháp, chàng thanh niên Phạm Quang Lễ được lựa chọn để thường xuyên tháp tùng Người. Một lần, Bác hỏi Phạm Quang Lễ: “Nguyện vọng của chú lúc này là gì?”, Phạm Quang Lễ trả lời ngay điều đã ôm ấp từ buổi đầu xuất ngoại: “Dạ thưa, nguyện vọng cao nhất là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần cho cách mạng”. Nguyện vọng tha thiết đó đã thôi thúc Phạm Quang Lễ từ bỏ công việc của mình để về nước cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đóng góp to lớn cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam

 Sau khi về nước, ngày 5/12/1946, kỹ sư Phạm Quang Lễ vinh dự được Bác Hồ trao đổi và giao nhiệm vụ. Bác thân mật nói: “Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú đến để trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng Cục Quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội diệt giặc”. Bác nói tiếp: “Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế kể từ nay, Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ cho gia đình, bà con chú ở trong Nam”.

Sau khi nhận nhiệm vụ, mặc dù hoàn cảnh vô cùng khó khăn, hầu như bắt đầu từ số không, đến cuối tháng 2/1947, các chiến sĩ quân giới dưới sự chỉ đạo của Cục trưởng Cục Quân giới Trần Đại Nghĩa đã sản xuất thành công súng bazôka với sức mạnh xuyên thủng 75 cm tường thành gạch xây, tương đương với sức nổ của đạn bazôka do Mỹ chế tạo. Ngày 5/3/1947, tại Sơn Lộ, Quốc Oai (Hà Đông), đạn bazôka vừa xuất xưởng đã bắn cháy 2 xe tăng của quân Pháp, làm cho kẻ thù bất ngờ, sửng sốt, còn quân dân ta thì vô cùng phấn khởi. Trong Chiến dịch Thu Đông năm 1947, súng bazôka còn bắn chìm cả tàu chiến Pháp ngược dòng sông Lô lên Việt Bắc. Trong lịch sử chiến tranh, bazôka xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1943. Thế mà một đất nước vừa thoát khỏi ách thuộc địa, nửa phong kiến đã chế tạo thành công loại vũ khí hiện đại này, quả là một huyền thoại.

Bác Hồ trong một lần làm việc với Giáo sư, viện sĩ Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu

Trần Đại Nghĩa còn nghĩ đến việc chế tạo một loại súng nhẹ, đấy là súng không giật SKZ, loại vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa (Nhật Bản) cuối chiến tranh thế giới thứ hai.

Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trần Đại Nghĩa đã góp phần to lớn trong việc tìm biện pháp chống nhiễu của máy bay B-52 và nâng cấp độ bay cao của tên lửa SAM-2 để tổ chức phòng không hiệu quả nhất. Ông cũng có công rất lớn trong việc tìm biện pháp phá hệ thống thủy lôi của địch và chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho bộ đội đặc công… làm rạng danh ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Trong suốt cuộc đời cống hiến cho khoa học, Giáo sư, viện sĩ, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đặc biệt tin tưởng, giao nhiều chức vụ quan trọng và vinh dự nhận nhiều danh hiệu cao quý của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Với những cải tiến, sáng chế của Trần Đại Nghĩa, vũ khí của Việt Nam đã có sức công phá lớn, trở thành nỗi khiếp sợ của quân thù. Các loại súng lớn, súng phóng bom, các loại mìn nổ chậm… với thương hiệu “made in Vietnam”, “made by Tran Dai Nghĩa” đã gây cho kẻ thù biết bao sửng sốt, bất ngờ, khiếp vía, giới vũ trang, quân sự quốc tế vô cùng ngạc nhiên và thán phục.

Với sự đóng góp to lớn cho nền quốc phòng Việt Nam, ngày 20/11/1948, Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt đầu tiên (khi tròn 35 tuổi). Năm 1952, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, ông là đại biểu trí thức được phong danh hiệu Anh hùng Lao động đợt đầu tiên. Đó cũng chính là năm ông được bầu Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô - danh vị cao nhất của những người làm khoa học.

Trong suốt cuộc đời cống hiến cho khoa học, Giáo sư, viện sĩ, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đặc biệt tin tưởng, giao nhiều chức vụ quan trọng và vinh dự nhận nhiều danh hiệu cao quý của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Nguyễn Đình Dũng


Ý kiến bạn đọc