Chuyện người hàng binh
LTS: Câu chuyện người hàng binh qua lời kể của cựu chiến binh Nguyễn Quang Thanh, nguyên cơ công (người sửa máy thông tin) Trung đoàn 66, Sư đoàn 10 là một câu chuyện nhân văn về tình người, thể hiện hình ảnh đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cuộc chạm trán bất ngờ
18 giờ ngày 18/3/1975, sau trận đánh ác liệt tại căn cứ B50 (sân bay Hòa Bình), đơn vị của tôi được lệnh hành quân thần tốc bằng cơ giới về hướng quận lỵ Khánh Dương theo Quốc lộ 21 (Quốc lộ 26 ngày nay). Tôi được phân công đi tiền trạm cùng bộ phận tham mưu, tác chiến, trinh sát, bộ phận nuôi quân và bộ phận thông tin. Đội hình tiền trạm do Tham mưu phó Tạ Ngọc Oanh dẫn đầu.
Đoàn xe đi qua Phước An, rạng sáng ngày 19/3 thì đến Chư Cúc. Để đảm bảo an toàn, chúng tôi chuyển sang hành quân bộ trên con đường đất đỏ. Anh Oanh cùng đồng đội xác định tọa độ và mục tiêu quận lỵ Khánh Dương. Tôi nói với anh Mãi, người đồng đội cơ yếu: “Anh đi chậm đợi Thanh với nhé, em đi giải quyết “nỗi buồn” một tí”. Tôi vào cách đường hành quân chừng 15 m, vừa kịp “trút bầu tâm sự”, bất chợt từ phía sau bụi le vang lên một tiếng nói:
- Em xin hàng, ông giải phóng ơi!
Giật mình quay lại, thấy một tên lính ngụy, tôi hô lớn:
- Hàng thì sống!
- Dạ, dạ, em xin hàng! Tên lính rối rít trả lời.
Lúc này tôi mới nhìn lại mình, trong tay chỉ có mỗi cái cuốc, còn hắn thì có súng. Tôi trấn tĩnh, hô tiếp: “Đằng sau quay, bỏ súng xuống, tiến lên 4 bước…”.
Hắn làm theo. Tôi nhặt khẩu súng của hắn kiểm tra. Hắn thấy tôi lên đạn, cúi xuống van xin: “Xin ông tha mạng, con có súng nhưng con chạy từ tối qua, con không bắn ai cả!”. Tôi trấn an: “Anh hàng rồi, không ai bắn anh đâu”.
Thấy người hàng binh có thái độ thật thà và thành khẩn, tôi dẫn anh ta đi theo mà không cần trói.
Anh ta tên là Dân, 35 tuổi, người Bình Định (cũ), lái xe Trung đoàn 44, Sư đoàn 23 của Ngụy. Anh ta kể rằng mình đã chạy trốn từ tối qua, thấy đâu cũng có quân Giải phóng nên nghĩ rằng xin hàng là con đường sống duy nhất. Gia đình Dân ở thị xã Buôn Ma Thuột và có 5 người con. Đến đơn vị, tôi báo cáo với anh Oanh về người hàng binh rồi bàn giao Dân cho bên Ban chính sách...
Chiến dịch diễn ra nhanh chóng, Sư đoàn chúng tôi thay nhau đánh chiếm Khánh Dương, rồi chiến đấu với Lữ dù 3 tại đèo Phượng Hoàng. Tối 2/4/1975, đơn vị chúng tôi ém quân tại xã Cam Phúc, Cam Ranh, một xã ven biển với đa số là giáo dân di cư người Nghệ An.
![]() |
| Cựu chiến binh Nguyễn Quang Thanh (ngồi giữa) kể chuyện về những năm tháng chiến đấu. |
Người dân nhìn thấy bộ đội Giải phóng đóng quân trong vườn nhà, họ sợ hãi đóng cửa lại. Chúng tôi ăn sáng bằng cơm và món môn thục phơi khô. Một cụ già hơn 70 tuổi ra nhìn vườn xoài, mít, thấy không mất quả nào, cụ lại gần mời chúng tôi ăn thịt lợn, rồi nói: “Nay tôi mới biết các ông Giải phóng. Các ông nghiêm thật, vườn nhà tui mà xoài mít không mất một quả. Nếu là lính Ngụy thì chắc không còn gì. Tui thấy các ông ăn khổ quá...”. Cụ còn xin chúng tôi tha cho hai cô cháu gái của cụ. Anh Tỵ, Trưởng Ban Thông tin giải thích quân Giải phóng không lấy của dân dù chỉ là cái kim sợi chỉ và lại càng không làm hại dân. Sau đó, cụ dẫn hai cô cháu gái cùng một số thanh niên khác cùng chúng tôi dọn dẹp, vệ sinh đường sá.
Trở thành đồng đội
Ngày thứ hai ở Cam Phúc, tôi được giao nhiệm vụ sang Hậu cần vào Quân cảng Cam Ranh lấy pin và máy thông tin. Anh Kế, Trưởng Ban Hậu cần nói giờ có xe nhưng không có lái xe và bảo tôi sang bên Chính sách xin một hàng binh biết lái xe.
Tôi sang trại hàng binh và bất ngờ gặp lại Dân. Anh ta cũng nhận ra tôi. Tôi xin Dân về lái xe cho Ban Thông tin. Dân lái xe cùng tôi vào cảng Cam Ranh chở pin PRC 25, máy thông tin và ắc quy.
Sau chuyến hàng ấy, tôi và Dân trở nên thân thiết hơn. Tôi bảo anh không cần gọi tôi là cán bộ, cứ gọi là "chú Hai" cho tiện. Ngày trở lại Buôn Ma Thuột, đơn vị tôi được cấp một chiếc xe chở khí tài riêng và Dân lại là người lái xe. Đơn vị đóng quân tại rừng cao su Km 3. Dân bảo nhà anh ta chỉ cách đó 3 km. Tôi xin phép thủ trưởng cho Dân về thăm nhà. Anh Tỵ đồng ý, nói đúng 4 giờ chiều phải có mặt. Tôi đưa cho Dân một chiếc áo bộ đội và 4 phong lương khô để làm quà cho vợ con. Anh ta mừng rỡ, gần như vừa đi vừa chạy.
Dân trở lại đúng hẹn, chúng tôi được lệnh tiếp tục lên đường. Dân được biên chế chính thức vào C Vận tải của đơn vị và tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến vào Sài Gòn, giải phóng sân bay Tân Sơn Nhất.
Ngày 20/5/1975, tôi gặp Dân ở Gò Vấp. Anh khoe giấy chứng nhận tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh do thủ trưởng trung đoàn ký và được về đoàn tụ với gia đình. Chúng tôi tặng anh ít lương khô, đường và sữa. Dân bịn rịn chia tay, hẹn tôi nếu có dịp về Buôn Ma Thuột thì ghé nhà anh: “Nhà tôi ở gần rạp chiếu bóng Hưng Đạo, chú về đó hỏi Ba Dân lái xe là họ chỉ cho”.
Đầu năm 1977, tôi chuyển ngành, chọn Buôn Ma Thuột là quê hương thứ hai vì nơi đây có quá nhiều đồng đội của tôi đã nằm lại. Vào những ngày 10/3, 17/3 hằng năm, tôi và những người lính Trung đoàn 66 đều tề tựu tại nghĩa trang, thắp nén nhang cho đồng đội. Gia đình anh Dân năm nào cũng có mặt.
Nhưng 10 năm nay, Dân đã không đến nữa. Anh mất vì bạo bệnh…
Trong ký ức của tôi và những người lính Trung đoàn 66, Dân luôn là một người đồng đội, một hàng binh đã cùng chúng tôi chiến đấu, tiến vào giải phóng Sài Gòn...
Trương Nhất Vương (ghi)






























Ý kiến bạn đọc