Multimedia Đọc Báo in

Dòng sông - ký ức quê hương

06:55, 23/08/2025

Miên man trôi qua bao dâu bể thăng trầm, trong lòng sông Cái vẫn chảy những câu chuyện của nhiều thế kỷ. Thành quách, làng nghề xưa không còn, nhưng sông Cái - “nhân chứng” bao sự kiện gắn với lịch sử hình thành miền biên viễn của Đại Việt xưa - vẫn lưu giữ hồn đất, hồn quê...

Dòng sông - “nhân chứng” lịch sử

Khởi nguồn từ dãy núi cao hơn nghìn mét ở Gia Lai, sông Cái được biết đến với cái tên La Hiên nơi thượng nguồn. Trên hành trình hơn 100 km băng qua điệp trùng rừng núi, men theo những xóm làng để về với biển, dòng sông này mang tên Kỳ Lộ, rồi được gọi là sông Cái. Đến Tuy An Bắc, nơi có cây cầu Ngân Sơn bắc qua, dòng nước sông Cái rẽ về hai ngả. Một nhánh hòa vào sông Bình Bá, đổ ra vịnh Xuân Đài. Nhánh kia qua Ngân Sơn, đến cầu Lò Gốm phía trên đập Tam Giang thì tiếp tục chia đôi: một dòng rẽ sang phía Nam, vào đầm Ô Loan, một dòng xuôi về phía Đông, qua cửa Tiên Châu (xã Tuy An Đông) hòa vào biển biếc.

Sông Cái êm đềm.

Nếu không phải người Tuy An, ít ai biết rằng xưa kia, ngay bên sông Cái từng có dinh Trấn Biên. Theo sử sách, dinh được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên lập vào năm 1629 và giao cho con rể là Nguyễn Phúc Vinh làm quan trấn thủ. Có một điều thú vị: Vợ quan trấn thủ - công nữ Ngọc Liên, trưởng nữ của chúa Sãi, theo đạo Thiên Chúa. Bà lập một nhà nguyện trong dinh.

Gần dinh Trấn Biên (sau đổi thành dinh Phú Yên) có cảng thị Tiên Châu sầm uất, nhộn nhịp ghe bầu đưa thương lái từ các dinh phía Bắc vào Trấn Biên buôn bán.

Năm 1641, từ cảng thị Hội An, giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Tiên Châu, lên vùng đất trấn biên để truyền đạo. Giáo sĩ được vợ chồng quan trấn thủ đón tiếp, cho giảng đạo tại nhà nguyện. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã đưa vùng đất phên giậu của Đại Việt vào bản đồ vẽ xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài năm 1651. Trong tấm bản đồ đó, giáo sĩ Alexandre de Rhodes ghi địa danh Dinh Phoan - tức dinh Phú Yên - tọa lạc bên một dòng sông, gần cửa biển. Nơi đó sau này dân địa phương gọi là Thành Cũ, nay thuộc xã Tuy An Đông.

Sau khi các thừa sai truyền giáo đặt chân lên vùng đất trấn biên, năm 1892, nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng bên dòng sông Cái, nay thuộc xã Tuy An Đông. Linh mục Joseph de La Cassagne xây dựng ngôi thánh đường theo kiến trúc Gothic, nhưng vẫn có sự giao thoa văn hóa phương Đông thể hiện qua hoa văn trên tường và các chi tiết kiến trúc. Nhà thờ Mằng Lăng là ngôi thánh đường cổ nhất còn lại ở Phú Yên trước đây, vùng đất phía Đông Đắk Lắk ngày nay. Không những thế, nhà thờ Mằng Lăng còn là một địa chỉ văn hóa độc đáo. Du khách tham quan nhà thờ Mằng Lăng không chỉ chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc đã tồn tại hơn 130 năm mà còn có cơ hội vào bên trong đền Thánh Anrê Phú Yên, chiêm ngưỡng quyển “Phép giảng tám ngày” - cuốn sách in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ của Việt Nam, do giáo sĩ Alexandre de Rhodes biên soạn, được in tại Roma (Italia) vào năm 1651, và cuốn “Từ điển Việt - Bồ - La” - từ điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới, cũng do giáo sĩ Alexandre de Rhodes biên soạn, được in vào khoảng đầu năm 1652.

Lịch sử vùng đất trấn biên phần nào được tái hiện tại “bảo tàng mini” bên trong đền Thánh Anrê Phú Yên. Và khi bước ra khỏi thánh đường, ngắm dòng sông Cái miên man trôi, ta bồi hồi nghĩ về hành trình mở mang bờ cõi của tiền nhân.

Những làng nghề nức tiếng một thời

Đứng bên sông Cái khi chiều buông, chợt như nghe vọng về từ trăm năm tiếng thoi đưa lách cách. Xưa kia, người dân Ngân Sơn có nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Dân gian có câu:

“Đất Cù Du là nơi chiếu tốt

Lãnh nào tốt bằng lãnh Ngân Sơn”

Lãnh Ngân Sơn tức là lãnh của Phường Lụa nức tiếng một thời. Từ Phường Lụa, một nghệ nhân tài hoa đã đưa sản phẩm của làng nghề đến cung đình, đó là nghệ nhân Võ Trưng. Sau khi được một nghệ nhân họ Hồ truyền nghề, bằng đôi tay khéo léo và khiếu thẩm mỹ, nghệ nhân Võ Trưng đã dệt nên gấm ngũ sắc tuyệt đẹp cung tiến vua triều Nguyễn. Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương mặc gấm Phường Lụa do nghệ nhân Võ Trưng dệt, cảm thấy hài lòng, bèn ra lệnh đóng cho nghệ nhân một khung dệt và ban tặng tấm biển “Hoàng hậu ân tứ” treo trước khung dệt, đồng thời phong tước Cửu phẩm và trao một tấm huy chương vàng. Qua bao thăng trầm, chiến tranh loạn lạc, các kỷ vật quý giá này không còn nữa.

Năm 2024, trong một lần trở lại Ngân Sơn, tôi gặp bà Mười (tên đầy đủ là Nguyễn Thị Sáng) - một nhân chứng của Phường Lụa ngày xưa. Bà Mười là con dâu nghệ nhân Võ Trưng. Trong câu chuyện bập bõm với khách, cụ bà gần trăm tuổi vẫn tiếc nuối vì gia đình đã không giữ được những tặng phẩm quý giá của Hoàng hậu Nam Phương. Và, cũng như nhiều người Ngân Sơn ở tuổi gần đất xa trời, bà Mười - dù tâm trí đã phủ đầy khói sương - vẫn thấy tiếc khi nghề dệt lụa nơi đây chỉ còn trong ký ức của người già, chỉ còn trong ca dao và trong những trang sách.

Nhà thờ Mằng Lăng bên sông Cái.

Bên sông Cái xưa, ngoài Phường Lụa, còn có một làng nghề nổi tiếng khác: làng Quảng Đức, nay thuộc xã Tuy An Đông. Bằng đôi tay khéo léo và óc sáng tạo, các nghệ nhân nơi đây từng làm nên một dòng gốm độc đáo: gốm Quảng Đức.

Theo các nhà nghiên cứu, gốm Quảng Đức được làm bằng đất sét ở An Định (nay thuộc xã Tuy An Bắc), nung bằng củi mằng lăng trong vùng và chở từ Đồng Xuân xuống theo đường sông Cái. Sản phẩm tiêu biểu trong dòng gốm Quảng Đức là gốm tráng men. Điều đặc biệt là trên hầu hết sản phẩm gốm tráng men đều in dấu vỏ sò. Nhà nghiên cứu cổ vật Trần Thanh Hưng, Chủ nhiệm Câu lạc bộ UNESCO Nghiên cứu - Bảo tồn cổ vật Phú Yên, từng lý giải: “Các nghệ nhân chế tác gốm cổ Quảng Đức kể rằng, ban đầu, họ đưa sò huyết Ô Loan vào trong lò nung gốm để được một công đôi việc, ra lò vừa có gốm vừa có vôi. Nhưng sò huyết Ô Loan thời bấy giờ quá nhiều, không ai chờ ăn con sò rồi mới lấy vỏ nung vôi, mà người ta cho nguyên con sò sống vào nung. Chính sự “ngẫu hứng” này của nghệ nhân đã làm cho gốm cổ Quảng Đức có những dấu hiệu nhận diện và màu men vô cùng độc đáo, không lẫn vào đâu được”.

Sau năm 1945, làng Quảng Đức không còn chế tác gốm tráng men; những người thợ nơi đây chỉ làm gốm đất nung cho đến khi các sản phẩm nhựa, kim loại chiếm lĩnh thị trường. Và làng gốm Quảng Đức chỉ còn trong lời kể của những người cao niên ở nơi này. 

Sông Cái không chỉ là một dòng sông. Với người Tuy An, đó là một di sản sống, một chứng nhân của đất và người nơi đây. Qua bao thăng trầm dâu bể, dòng sông vẫn mải miết đi về phía biển, mang theo hồn quê, mang theo ký ức của biết bao thế hệ.

   Yên Lan
 


Ý kiến bạn đọc


(E-Magazine) Sầu riêng Krông Pắc – Từ vườn vươn ra thế giới
Krông Pắc – vùng đất từng vang danh với những đồn điền cà phê, nay lại được biết đến nhiều hơn bởi một “ngôi sao mới” - sầu riêng, loại trái cây “vua” của vùng nhiệt đới. Sau hơn hai thập kỷ, Krông Pắc đã trở thành “thủ phủ” sầu riêng của Đắk Lắk, mang theo khát vọng nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường thế giới.