Vết thương đã lành trên dòng sông giới tuyến
Không nhớ đã bao nhiêu lần tôi đi đi về về trên cung đường Hồ Xá - Đông Hà (Quảng Trị), và thỉnh thoảng, khi đến cầu Hiền Lương tôi vẫn gặp những chuyến xe hoa rước dâu chạy vun vút qua nhịp cầu soãi mình qua con sông Bến Hải. Với những ai đã từng đọc về dòng sông và vĩ tuyến 17 này, hình ảnh chuyến xe hoa rước dâu qua cầu ấy thật ra mang một ý nghĩa sâu xa hơn bình thường.
Từ bài ca khắc khoải sóng Hiền Lương…
Không phải ngẫu nhiên mà sau ngày hòa bình, có một bài thơ thường được ngâm trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam như một niềm vui có tính biểu tượng, đấy là bài thơ “Đưa dâu qua cầu Bến Hải”. Bài thơ nói về sự hàn gắn sau bao nhiêu năm đằng đẵng cắt chia:… “Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu/ Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải/ Cầu vừa bắc xong/ Sơn còn tươi rói/ Đôi bờ xanh lúa mới ngậm đòng/ Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt rưng rưng/ Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ/ Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa, Cam Lộ/ Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau/ Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu/ Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái/ Bước chân Hiền Lương sao đường nghẽn lại/ Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên…”.
Bài thơ ấy là của nhà thơ Cảnh Trà (tên thật là Đặng Đức Cảnh, quê Nam Đàn, Nghệ An) khi ông trở lại vĩ tuyến 17. Bài thơ không cầu kỳ huê dạng, nhưng tứ thơ lại ăm ắp ngôn ngữ biểu tượng. Và nói về sự hàn gắn, sự lành lại của vết thương, không có gì ý nghĩa hơn câu chuyện của tình duyên.
Bài hát đầu tiên về khát vọng thống nhất hàn gắn trên con sông này cũng là câu chuyện của một mối tình từ “Câu hò bên bờ Hiền Lương”. Đấy là chuyến đi “thực tế” vào vĩ tuyến 17 của chàng nhạc sĩ trẻ mới ngoài 20 tuổi - Hoàng Hiệp. Đi tìm nguyên mẫu của tác phẩm, chúng tôi mới biết người đàn ông trong hồi ức của nhạc sĩ, người khởi nguồn cho “Câu hò bên bờ Hiền Lương” chính là Phan Văn Đồng, quê ở thôn 9, Trung Giang - một làng cát bên bờ Nam Cửa Tùng. Ông Đồng vừa cưới vợ xong thì tập kết qua bên này, làm nhân viên Trạm khí tượng hải văn Cửa Tùng. Trong một lần lên trên ngọn đèn biển ấy với người gác đèn, nhạc sĩ Hoàng Hiệp chứng kiến nỗi khắc khoải của người đàn ông nhớ vợ bên kia bờ vĩ tuyến. Và ngay đêm đó, những ý tứ hình hài của bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” đã phôi thai, sau đó cùng với nhạc sĩ Đằng Giao cộng tác phần lời, bài hát ấy đã vang lên làm rung động hàng vạn trái tim. Bởi câu chuyện ấy không chỉ là chuyện đôi bờ Hiền Lương, chuyện của riêng mảnh đất Quảng Trị mà có sức khái quát sự ngăn cách của hàng vạn đôi lứa ở hai miền Nam - Bắc những năm tháng ấy. Sau năm 1975, ông Phan Văn Đồng, người công nhân Trạm khí tượng hải văn Cửa Tùng ấy đã gặp lại vợ con mình. Câu chuyện của ông Đồng cũng là câu chuyện của hàng nghìn gia đình đã may mắn có ngày đoàn viên sau hơn 20 năm chia ly cách biệt.
Bởi thế, từ câu hát bên ven bờ Hiền Lương ấy cho đến ngày gặp đám rước dâu qua cầu Bến Hải không chỉ là câu chuyện lứa đôi mà đó còn là khát vọng của đất nước.
Khi tỉnh Quảng Trị bị chia đôi sau Hiệp định Geneve, huyện Vĩnh Linh cũng bị chia ra một phần nhỏ nằm phía bờ Nam, các xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Liêm ngày đó có vài thôn làng nằm về bên kia sông. Một xóm bị chia hai, một quãng lội chia hai, một gia đình bị chia hai...
Ảnh cầu Hiền Lương nhìn từ bờ Nam đăng trên tạp chí LIFE. |
Câu chuyện phân ly hai miền Nam - Bắc gắn với Hiệp định Geneve không chỉ “vĩ mô” với sự tham dự của các cường quốc Anh, Mỹ, Pháp, Liên Xô, Trung Hoa và các nước Đông Dương ở thành phố Geneve. Với những người nông dân Quảng Trị ở đôi bờ Bến Hải, khái niệm “vĩ tuyến” là một cái gì mơ hồ, nhưng lại rất cụ thể trong chính từng mảnh làng, trong chính gia đình của họ. Người dân ở đây kể rằng, thời đó, khi người thân ở bờ Nam mất, đám tang được đưa thành một hàng dài bên này sông, cứ thế đi dọc bờ sông, bờ bên kia, con cháu cũng cứ thế vừa đi vừa bái vọng qua bờ bên này. Có nhà văn viết hình ảnh hơn: “Không phải chỉ có hai đoàn người mà có đến bốn đoàn người đưa tiễn, hai đoàn người đi trên hai bờ và bóng của hai đoàn người in xuống mặt nước sông Bến Hải, cứ thế đi dọc theo lũy tre ra tận đồng làng”.
Và tình yêu hàn lại vết cách chia
Cái quãng đường dọc con sông ấy đi qua các thôn Xuân Hòa về Xuân Long, Bạch Lộc của xã Trung Hải, bây giờ bờ sông đã được kè bê tông, đẹp như công viên. Gần 20 năm trước (năm 2004), trong chuyến đi tìm kiếm những nhân vật “chứng nhân” của cuộc phân ly nhân kỷ niệm 50 năm Hiệp định Geneve và những chuyến tàu tập kết, chúng tôi đến nhà ông Trần Ngọc Châu ở thôn Xuân Hòa, xã Trung Hải (huyện Gio Linh). Ngôi nhà nằm cạnh bờ sông, từ bến nước sau nhà nhìn lên chiếc cầu mới phục chế không đầy 100 m, nhìn qua bờ bắc, nơi có đồn công an vũ trang Hiền Lương và chiếc cổng chào “tiền đồn” cũng chỉ rộng khoảng ngần ấy, vậy mà suốt tuổi thanh xuân của vợ chồng ông đã đành đoạn chia biệt bên ni - bên nớ.
Tham gia kháng chiến từ năm 1947 khi mới 15 tuổi, năm 1953 gia đình ông Châu dạm hỏi cô Dĩnh người cùng làng cho ông. Ông Châu vượt sông về, vùng quê ông hồi đó còn tề ngụy, ngày đám cưới ông núp trên... trần nhà, nhìn xuống vợ một mình bái lạy trước bàn thờ gia tiên. Bọn tề đánh hơi được ông về cưới vợ đã theo dõi rất chặt, đêm đó ông lên lại chiến khu mà chưa thấy rõ mặt vợ mình. Hơn một năm sau Hiệp định Geneve ký kết, ông Châu chưa kịp tìm về quê nhà thì cầu Hiền Lương đã chia làm đôi với hai màu sơn khác nhau. Ông Châu được điều động về Công an vũ trang Hiền Lương phía bờ bắc, bà Dĩnh ở lại bờ nam để vừa làm cơ sở cách mạng, vừa phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi em nhỏ. Trên một đoạn sông vài cây số ở phía bờ nam nhưng có rất nhiều đồn cảnh sát, lính tráng ken dày, kiểm soát gắt gao. Dù biết được tin chồng mình đang ở bên ấy nhưng bà Dĩnh không thể nào gặp được. Bà nghĩ ra cách phải xuống bờ sông giả bộ giặt giũ áo quần để nhìn sang bên đó coi hình dáng chồng mình thế nào, thấp hay cao, béo hay gầy... Mãi đến cuối năm 1966 ông Châu nhận nhiệm vụ vượt tuyến vào Nam, hoạt động ở vùng thượng nguồn Bến Hải, cơ sở cách mạng bố trí đưa bà Dĩnh lên chiến khu để được gặp chồng. “Lần đầu tiên vợ chồng tui mới nhìn rõ mặt nhau, tui khóc, ông khóc làm cho nhiều người có mặt hôm ấy cảm động lắm, nhưng cũng chỉ nhìn được nhau, rồi tui nhận nhiệm vụ đi công tác” - bà Dĩnh nhớ lại giây phút hạnh phúc nhất của đời mình. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn rồi cơ sở đưa bà Dĩnh vượt tuyến ra Bắc. Trớ trêu thay, lần này ông Châu phải ở lại hoạt động ở miền Nam... Cho đến khi đất nước thống nhất, vợ chồng ông Châu - bà Dĩnh mới được sống bên nhau.
Những chứng nhân của câu chuyện chia ly và đoàn tụ ở đôi bờ sông giới tuyến, cùng với thời gian đã thành người thiên cổ, nhưng sự chia ly để rồi đoàn tụ của những đôi lứa ở hai bờ con sông này, những sự chia ly gắn với số phận đất nước luôn được nhắc nhớ và kể lại, để thấy quý giá vô cùng những ngày thường bình yên mà chúng ta có được từ khi đất nước thống nhất.
Cầu Hiền Lương - sông Bến Hải ngày nay. |
Hay câu chuyện vợ chồng ông Hoàng Nghi và bà Hoàng Thị Hoa - chú rể và cô dâu của đám cưới được rước dâu qua cầu Hiền Lương vừa mới được phục dựng lại, ngay sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết chỉ vài tháng và giới tuyến quân sự được dời chuyển vào sông Thạch Hãn. Nếu bài thơ của Cảnh Trà viết chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa - Cam Lộ thì câu chuyện rước dâu qua cầu Bến Hải đúng là của chàng trai Vĩnh Linh và cô dâu không phải là Cam Lộ mà lại là… Triệu Phong!
Nhà ông Nghi ở làng Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, bờ Bắc sông Bến Hải; còn bà Hoa ở làng Tam Hữu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, phía bờ Nam sông Bến Hải. Một lần bà Hoa bí mật đưa thương binh ra miền Bắc rồi bị lạc đường vào làng Hiền Lương và được ông Nghi bấy giờ là du kích xã giúp đỡ. Ông Nghi đưa bà về khu nhà của đội du kích Hiền Lương tá túc một thời gian. Những ngày lưu lại bên bờ sông giới tuyến đã làm tình cảm giữa hai người nảy sinh. Rồi sau khi bắt liên lạc với quê nhà, bà Hoa lại vượt sông Bến Hải trở lại Triệu Phong tiếp tục phục vụ kháng chiến. Sau cuộc gặp ấy, ông Nghi nhiều lần bí mật vượt sông vào Triệu Phong đi tìm người thương. Ông từng đóng giả người đánh cá trên sông, chèo thuyền để sang phía Triệu Phong nhưng cũng chỉ được vài lần thì bị phát hiện. Khi Hiệp định Paris ký kết tháng 1/1973, đôi lứa mới gặp lại nhau và nên duyên chồng vợ. Đám cưới của họ được đưa thành một hàng dài đi qua cây cầu sắt vừa bắc xong sơn còn tươi mới, bà con đôi bờ vĩ tuyến đứng thành hai hàng trên cầu vỗ tay thay cho tiếng pháo đón dâu mừng hạnh phúc. Năm mươi năm rồi, ông bà tuổi đã ngoài thất thập, sống bên nhau trong ngôi nhà nằm ngay mép nước Hiền Lương, nhưng tình yêu họ dường như vẫn xanh như màu nước trên dòng sông vĩ tuyến!
Lê Đức Dục
Ý kiến bạn đọc