Một số điểm mới của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII)
Một số điểm mới của Nghị quyết số 12-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”
1. Về khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đã xác định nội hàm rõ doanh nghiệp nhà nước để thống nhất cách hiểu “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”. Vậy phạm vi bao quát không chỉ ở một số ít doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mà còn bao gồm một số lượng rất lớn doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, phù hợp với thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế. Khái niệm này kế thừa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX), nhưng có bổ sung hơn so với Luật Doanh nghiệp 2014 (Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ). Hiện nay, vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước rất lớn và Nhà nước có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển các doanh nghiệp này, vì vậy rất cần sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.
2. Về vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
- Trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; “doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) nêu bật hơn vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII: Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
3. Về phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động
Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề ra chủ trương tiếp tục thu hẹp phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế”.
Như vậy, phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã được xác định rõ hơn so với Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và phù hợp hơn với vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Về cơ chế hoạt động, tiêu chí đánh giá hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) xác định quan điểm: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ công ích.
Quan điểm này cụ thể hóa chủ trương của Đảng trong Đại hội XII “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng cạnh tranh theo pháp luật”; “Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích”.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề xuất giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường:
+ Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
+ Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.
+ Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,...
+ Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Nhìn chung, đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết này là hướng tới bảo đảm đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước “sòng phẳng” và rõ ràng hơn theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xóa bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển.
(Còn nữa)
Ban Tuyên giáo TW – Ban Kinh tế TW
Ý kiến bạn đọc