Multimedia Đọc Báo in

Kể chuyện trồng cây nơi Lăng Bác

08:15, 24/05/2022

Thật tình cờ, tôi được gặp người phụ trách công việc thi công trồng cây tạo không gian xanh bên Lăng Bác gần 50 năm trước.

Ông là TS. Nguyễn Đăng Khôi, nguyên Phân viện trưởng Phân viện Sinh học Đà Lạt thuộc Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Nghiên cứu khoa học Tây Nguyên thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Một ngày tháng năm, tôi đã được nghe nhà khoa học nay đã ở tuổi 86 kể lại những câu chuyện đầy xúc động về những tháng ngày mà ông mãi mãi khắc ghi vào tâm khảm như là một ký ức thiêng liêng, vô cùng ý nghĩa trong cuộc đời mình…

Lăng Bác không thể là một đền đài tĩnh lặng

Đến những ngày trước lúc đi xa, Bác vẫn không đồng ý xây dựng Lăng cho mình. Nhưng duy nhất một lý do mà Bác chấp nhận đề nghị của Bộ Chính trị xin Bác cho ướp thi hài để đến ngày nước nhà thống nhất, đồng bào miền Nam được nhìn thấy Bác. Sau đó, Quốc khánh 1973, Bộ Chính trị chính thức phát lệnh khởi công Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngày thống nhất gần kề. Có nhiều đề án được đưa ra triển lãm lấy ý kiến nhân dân. Cuối cùng, Lăng Bác được thiết kế theo phong cách Việt Nam, hình khối kiến trúc giống như một ngôi nhà năm gian, nhiều cột trụ và có bậc tam cấp. Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng Đỗ Mười được giao trọng trách Trưởng ban phụ trách xây dựng Lăng Bác…

Không gian Lăng Bác vừa uy nghi, vừa thân thuộc. Ảnh: Đăng Khoa

Tôi hỏi TS. Nguyễn Đăng Khôi: “Thưa ông, theo chúng tôi được biết thì hồi đó các bạn Liên Xô (cũ) đã giúp đỡ chúng ta thiết kế, vật liệu xây dựng, trang thiết bị kỹ thuật và cử đoàn chuyên gia qua hỗ trợ. Vậy sáng kiến “không gian xanh Lăng Bác” là do ai đề ra?”. “Không ai đề ra cả mà chính chúng ta đã thực hiện theo tư tưởng, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây, hoa lá, chim muông. Lúc quy tiên, hãy để Bác được sống giữa mùa Xuân vĩnh cửu Việt Nam. Không gian nơi yên nghỉ của Người không thể là một đền đài tĩnh lặng…”.

Tiểu ban cây xanh được thành lập với sự tham gia của nhiều ban, ngành. TS. Nguyễn Đăng Khôi hồi đó là cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Việt Nam, được giao nhiệm vụ phụ trách tiểu ban này. Ông kể: “Để thiết kế thành công, chúng tôi đã về quê Bác, vào nhà sàn làm việc của Người nghiên cứu, với mong muốn làm sao cho những loài cây Việt Nam thân quen từ thuở thiếu thời đến ngày Bác đi xa đều có mặt ở nơi yên nghỉ cuối cùng của Người. Không gian xanh phải thể hiện được sở thích, tâm hồn của Bác, bảo đảm phù hợp với tổng quan kiến trúc, điều kiện sinh thái và tôn thêm vẻ đẹp thiêng liêng của Lăng. Chúng tôi muốn thể hiện không gian nơi Bác yên nghỉ là một khu vườn đặc sắc theo phong cách Việt Nam. Không có loài hoa lá nào xa lạ với Người và không xa lạ với miền quê nào cả”.

Xung quanh Lăng là những hàng cổ thụ thể hiện sự vĩnh cửu, trường tồn. Hai cây đại thụ trước cửa Lăng mang dáng dấp những ngôi chùa cổ. Bên trái phải cửa Lăng là hai hàng vạn tuế như hai hàng tiêu binh đứng gác. Xa xa hơn là một số cây đa nhân giống từ cây đa Tân Trào lịch sử, mang biểu trưng của làng Việt ngàn đời. Kết thúc không gian hai bên lễ đài là hai khối tre luồng Thanh Hóa, vừa mang hồn dân tộc, vừa phù hợp với tổng thể kiến trúc. Trên đường Hùng Vương, con đường lớn dành cho các ngày đại lễ là hai hàng chò, chò nâu của đất Tổ Hùng Vương và chò nước Nam Bộ. Trên đường Bắc Sơn, đường chính vào Lăng là hai hàng cây ban Tây Bắc, loài hoa thể hiện sự thủy chung. Điểm quanh quảng trường là phượng vĩ, hoa đào màu đỏ; và những cây dừa miền Nam, tre ngà Bắc Bộ, bưởi Đoan Hùng, cam Xã Đoài, mạn hảo và dâm bụt làng Sen. Vườn hoa sau Lăng Bác cũng được điểm tô bằng hàng rào dâm bụt, hoa nhài, hoa đào nhân giống từ cây đào của đồng chí Tô Hiệu trồng tại nhà tù Sơn La, đào bạch Lạng Sơn, mẫu đơn, ngọc bút, mộc, mai vàng Nam Bộ… trên tấm phông xanh mát của hàng ngọc lan.

Sân bê tông với hệ thống phun nước theo thiết kế ban đầu sau đó được thay bằng thảm cỏ xanh. Thảm cỏ này là hỗn hợp của cỏ gà và cỏ mật, được trồng trên một loại đất phù hợp, có hệ thống thoát nước hoàn chỉnh để làm sao cho 20 - 30 vạn người có mặt trong các ngày đại lễ sẽ không làm hỏng cỏ.

Đồng bào cả nước cùng hướng về nơi Bác yên nghỉ

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sắp thành công, Lăng Bác phải hoàn thành trước ngày Quốc khánh Việt Nam thống nhất. Tiến độ thi công khẩn trương cả ngày đêm. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban phụ trách xây dựng Lăng đều chú tâm cho công việc sớm được hoàn thành.

Những loài cây quý khắp mọi miền đất nước cùng tụ về nơi yên nghỉ của Bác. Ảnh: Đăng Khoa

Điều đáng nói nhất là tấm lòng đồng bào cả nước cùng hướng về công trình Lăng Bác. Cây mọi miền tụ hội về nơi Người yên nghỉ: Tây Bắc có hoa ban, hoa đào; Thanh Hóa có tre luồng; các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ có cây vạn tuế; Nghệ An có mạn hảo, dâm bụt; Hà Nội có đại, ngọc lan; Vĩnh Phú có chò; Lạng Sơn đào bạch; Hải Phòng xương rồng đỏ… Thật cảm động, đồng bào miền Nam trong lửa đạn vẫn hướng về Thủ đô. Gỗ ở Khu 5 và Tây Nguyên vượt Trường Sơn ra bắc. Năm xe ô tô tải chở những cây mai vàng, mai tứ quý, sứ, dừa… ngày nghỉ, đêm đi. Đồng bào Đà Lạt chọn cây hoa hồng và cây ùm ụp từ cao nguyên gửi ra dâng Bác…

TS. Nguyễn Đăng Khôi kể nhiều câu chuyện cảm động mà chúng tôi khó lòng ghi hết. Ông nói: “Hồi đó, mỗi khi chúng tôi đến các tỉnh chọn cây thì địa phương coi dịp này là một đại lễ. Hầu như tất cả mọi người, từ già đến trẻ đều tham gia vào công việc thiêng liêng này. Ngày lên Sơn La rước hoa đào, hoa ban cũng thật cảm động. Lúc đầu, chúng tôi lo là làm sao chở cây với hành trình xa như thế mà cây không bị chết. Có ý kiến đề xuất đan bầu tre đựng cây. Nhưng tre đâu? Đan sao kịp? Lãnh đạo địa phương chỉ hô một tiếng, trong một buổi có hàng trăm người tự nguyện chặt tre nhà vác đến rồi đan bầu, đặt cây. Ngày rước cây như một ngày hội của dân. Trên đường đoàn xe về Hà Nội, dân các bản làng bày hương án bên đường và tề tựu rước cây như một nghi lễ thiêng liêng. Hoặc chuyện lấy đất phù sa sông Hồng để làm nền trồng cỏ trước Quảng trường Ba Đình. Đất đảm bảo tiêu chuẩn chỉ có ở xã Lĩnh Nam (Thanh Trì, Hà Nội), có nghĩa là lấy từ diện tích mà dân đang canh tác. Chúng tôi cùng ban chủ nhiệm hợp tác xã họp dân. Bốn ngày sau, công trường được mở. Nông dân xã Lĩnh Nam tự hào vì được góp đất quê mình vào công trình nơi an nghỉ cuối cùng của vị lãnh tụ kính yêu. Họ từ chối nhận đền bù hoa màu. Một khó khăn nữa là phải làm sạch cỏ dại trên đất phù sa trước khi đưa về Lăng Bác. Ngày 8/3/1975, phụ nữ xã Lĩnh Nam đã bỏ phiên chợ Mơ để làm sạch cỏ dại cho công trình Lăng. Họ tự nguyện đến tổ chức mít tinh và đặt tên buổi làm sạch cỏ là “lễ Âu Cơ”…

TS. Nguyễn Đăng Khôi trầm ngâm giây lát và nói với tôi như một lời tâm sự thốt lên tự đáy lòng: “Thật khó có vị lãnh tụ nào mà hợp với lòng dân, được dân kính, dân yêu như Bác của chúng ta! Chỉ riêng trong công việc trồng cây làm đẹp không gian nơi an nghỉ cuối cùng của Người mà chúng tôi cũng được cảm nhận sâu sắc tình cảm thiêng liêng của nhân dân với Bác kính yêu…”.    

Uông Thái Biểu


Ý kiến bạn đọc


(E-magazine) Kiến tạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Đắk Lắk không chỉ nằm trong khu vực có hệ sinh thái tự nhiên phong phú, đa dạng phù hợp cho phát triển nông nghiệp, mà còn là địa phương có đến 49/53 dân tộc thiểu số cùng sinh sống. Đây là lợi thế cạnh tranh rất lớn cho tỉnh trong xây dựng và phát triển Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), tạo dựng nền nông nghiệp giàu bản sắc, kiến tạo kinh tế vùng nông thôn vững mạnh, tạo cú hích nâng tầm giá trị cho nông sản địa phương vươn ra thị trường trong và ngoài nước.