Đồng chí Võ Chí Công - tấm gương người cộng sản mẫu mực
I. NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Đồng chí Võ Chí Công tên khai sinh là Võ Toàn, sinh ngày 7-8-1912, tại thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (nay là huyện Núi Thành), tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là ông Võ Nghiệm (tức Võ Đường), một nhà nho yêu nước, một đảng viên cộng sản, được Đảng, Nhà nước truy tặng liệt sĩ. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Thân, một cơ sở cách mạng tin cậy của Đảng, được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Đồng chí Võ Chí Công thăm hỏi bà con huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam năm 1989. Ảnh: T.L |
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình yêu nước, cách mạng, ở một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, yêu nước chống giặc ngoại xâm, với nhiều chí sĩ nổi tiếng như: Hoàng Diệu, Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thành, Huỳnh Thúc Kháng…, người thanh niên yêu nước Võ Chí Công đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên yêu nước ở cơ sở những năm 1930-1931. Tháng 5-1935, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay).
Năm 1936, đồng chí làm Bí thư chi bộ ghép (một số xã thuộc huyện Tam Kỳ). Năm 1939, đồng chí làm Bí thư Huyện ủy Tam Kỳ; đến tháng 3-1940, làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1941, đồng chí được cử vào xứ ủy Trung Kỳ, phụ trách các tỉnh từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Phú Yên. Năm 1942, đồng chí được phân công vào gây dựng cơ sở tại các tỉnh vùng Nam Trung Bộ. Năm 1943, đồng chí bị địch bắt, bị kết án chung thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù, giam ở nhà lao Hội An, sau bị đày đi nhà tù Buôn Ma Thuột. Tháng 3-1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, đồng chí được ra tù, trở về Quảng Nam tiếp tục hoạt động cách mạng, làm Trưởng ban khởi nghĩa tỉnh, chỉ huy cướp chính quyền ở Quảng Nam.
Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, đồng chí Võ Chí Công là ủy viên Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; Chính trị viên Trung đoàn 93. Năm 1946, làm Phó ban Tổ chức cán bộ và Thanh tra quân khu V. Năm 1951, làm Bí thư Ban cán sự Đông Bắc Miên (Campuchia), Khu ủy viên khu V. Năm 1952, làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng.
Đầu năm 1954, đồng chí ra Bắc và được phân công là đoàn ủy viên cải cách ruộng đất ở khu Việt Bắc. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí được phân công trở lại khu V làm Phó Bí thư Khu ủy khu V (1955-1958). Tháng 9-1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Võ Chí Công được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, làm Bí thư Khu ủy khu V. Năm 1961, khi Trung ương Cục miền Nam được thành lập, đồng chí được Bộ Chính trị điều động vào Nam Bộ làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Tháng 3-1962, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và là đại diện của Đảng trong Mặt trận. Tháng 1-1964, Bộ Chính trị điều động đồng chí về khu V, vẫn làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Bí thư và Chính ủy khu V. Sau khi miền Nam giải phóng hoàn toàn (1975), đồng chí là Phó Ban đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam, phụ trách khu V. Năm 1976, đồng chí được cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Hải sản.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), đồng chí Võ Chí Công tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Năm 1978, đồng chí làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Trưởng Ban cải tạo Nông nghiệp miền Nam. Tháng 4-1981, đồng chí được cử giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 3-1982, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư và được phân công làm Thường trực Ban Bí thư. Tháng 6-1986, đồng chí được phân công giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và tham gia Đảng ủy Quân sự Trung ương. Tháng 4-1987, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Đồng chí là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (6-1991) và khóa VIII (6-1996) đến Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (12-1997). Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VI, VII và VIII. Đồng chí từ trần ngày 8-9-2011, tại thành phố Hồ Chí Minh.
Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Võ Chí Công đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác.
Tháng 3-1945, từ nhà tù Buôn Ma Thuột trở về, đồng chí Võ Chí Công tham gia ngay vào Ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh Quảng Nam, làm Trưởng Ban khởi nghĩa, trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở Hội An, với kế hoạch hành động hết sức linh họat và sáng tạo, như: gửi thư đòi Tỉnh trưởng giao chính quyền cho cách mạng; cử cán bộ đi sâu vào cơ sở của địch để vận động binh biến; tổ chức quần chúng biểu tình bao vây đồn bốt và các cơ quan đầu não của địch, trấn áp bọn ngoan cố… Trước khí thế áp đảo của quần chúng, chính quyền tay sai ở Hội An tan rã nhanh chóng, ta hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ ngay trong ngày 17-8-1945. Sau đó các huyện trong tỉnh Quảng Nam lần lượt giành được chính quyền.
Bằng nhiều biện pháp, đồng chí Võ Chí Công đã cùng Ban lãnh đạo khởi nghĩa giành được thắng lợi trong tỉnh một cách nhanh chóng. Quảng Nam trở thành một trong 4 tỉnh giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất trong cả nước.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí Võ Chí Công đã cùng Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời trực tiếp chỉ đạo xây dựng chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang ở Quảng Nam – Đà Nẵng.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Liên khu V, lãnh đạo nhân dân Liên khu V kiên cường chiến đấu, tăng gia sản xuất, chia lửa với chiến trường chính Điện Biên Phủ, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Campuchia, trên cương vị Bí thư Ban cán sự Đông Bắc Miên, đồng chí Võ Chí Công đã cùng đồng chí của mình hoàn toàn xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên cương vị là Bí thư khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu V, đồng chí đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, kiên trì bám đất, bám dân, luôn đi sát cơ sở, sát phong trào, tổ chức chỉ đạo quân và dân Liên khu V chiến đấu không lùi bước, giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Trải nghiệm, tôi luyện trong thử thách, trong thực tế lãnh đạo, điều hành các cấp, với tác phong sâu sát quần chúng, với bản lĩnh cách mạng và tài trí kiên cường, đồng chí Võ Chí Công đã đề xuất với Trung ương nhiều vấn đề có tính chiến lược về con đường của cách mạng miền Nam, đóng góp vào việc xây dựng dự thảo Nghị quyết Trung ương 15 lịch sử, mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng miền Nam.
Sau phong trào Đồng Khởi thắng lợi, trên cương vị là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí đã xuống nhiều địa phương của Nam Bộ nghiên cứu, khảo sát, đúc kết kinh nghiệm để phổ biến cho toàn miền Nam chống bình định, phá ấp chiến lược, chống chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của địch trong Chiến tranh Đặc biệt.
Đồng chí được Bộ Chính trị điều động về khu V – một chiến trường cực kỳ gian khổ, ác liệt, nơi Mỹ đổ bộ những đơn vị quân viễn chinh đầu tiên để triển khai Chiến tranh Cục bộ, trong đó thành phố Đà Nẵng cùng với Chu Lai trở thành một trong những căn cứ liên hiệp quân sự lớn nhất ở miền Nam. Khu ủy khu V dưới sự lãnh đạo của đồng chí Võ Chí Công đã quyết định đánh trận phủ đầu quân viễn chinh Mỹ ở cứ điểm Núi Thành, tiêu diệt gọn một đại đội địch, mở ra khả năng quân và dân ta có thể đánh và thắng Mỹ trong chiến tranh. Với chiến thắng Núi Thành, quân dân Quảng Nam được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu “Quảng Nam trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của đồng chí Võ Chí Công và Khu ủy khu V, quân ta đã tiến công vào các thành phố, thị xã đạt được mục tiêu rồi nhanh chóng rút về căn cứ, nên đã bảo toàn được lực lượng, ít bị thiệt hại so với những nơi khác.
Hiệp định Pari được ký kết năm 1973, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Là người trực tiếp lãnh đạo trên chiến trường, từ sự chỉ đạo chiến lược của Trung ương, từ kinh nghiệm thực tiễn, đồng chí Võ Chí Công và lãnh đạo khu ủy khu V xác định: sẽ không có hòa bình ngay, kẻ địch còn tiếp tục đánh phá, phá hoại Hiệp định. Đồng chí coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng, xốc lại đội ngũ, kiên quyết tiến công địch, giành đất, giành dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, góp phần đẩy nhanh sự suy yếu của ngụy quân, ngụy quyền.
Tháng 3-1975, Bộ Chính trị chủ trương tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, quyết tâm giải phóng miền Nam. Đồng chí Võ Chí Công đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho chiến dịch, tham gia chỉ đạo đánh mở màn vào Buôn Ma Thuột, giải phóng toàn bộ vùng đất chiến lược Tây Nguyên, làm cho quân địch choáng váng, tháo chạy về Đà Nẵng cố thủ. Nắm bắt thời cơ mới xuất hiện, đồng chí đề xuất ý kiến với Bộ Chính trị, chớp thời cơ tiến công giải phóng Đà Nẵng sớm hơn kế hoạch đã định. Thắng lợi ở Tây Nguyên và Đà Nẵng góp phần tạo thế và lực to lớn cho toàn quân, toàn dân ta giải phóng Sài Gòn, đánh thắng ý đồ kéo dài chiến tranh của Mỹ, ngụy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Gần 30 năm lãnh đạo quân dân Quảng Nam – Đà Nẵng và khu V chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí Võ Chí Công đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những mốc son trên con đường hoạt động cách mạng thời kỳ này của đồng chí đã được ghi vào lịch sử của Đảng ta, tô đậm trang sử kháng chiến oai hùng của quân và dân Nam Trung Bộ.
(Còn nữa)
Ý kiến bạn đọc