Multimedia Đọc Báo in

Hồi ức không quên về mùa Xuân toàn thắng

15:24, 31/01/2025

Đại thắng mùa Xuân 1975 là sự kiện lịch sử hào hùng đánh dấu sự kết thúc và cũng là một khởi đầu mới, một cuộc chuyển giao lịch sử từ những đau thương, mất mát, kìm kẹp đến hòa bình, độc lập, thống nhất cùng bao hoài bão lớn lao của cả dân tộc Việt Nam.

Với người cán bộ lão thành cách mạng Nguyễn An Vinh - nguyên Bí thư Tỉnh ủy, những ngày Xuân 1975 mãi là những ngày tháng sống động trong một miền ký ức đã xa nhưng mãi xanh của hành trang cuộc đời mình.

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn An Vinh kể về những kỷ niệm trong mùa Xuân toàn thắng.

Ông nhớ lại: Khoảng cuối tháng 9/1974, lúc đó ông là Ủy viên Thường trực Ban Sản xuất, là một trong ba thành viên được lãnh đạo Tỉnh ủy cử tham gia đoàn đi dự cuộc họp bàn về công tác kinh tài do Khu ủy Khu V triệu tập. Khi kết thúc hội nghị, đoàn Đắk Lắk được thông báo ở lại thêm mấy ngày để nghe phổ biến và bàn một số việc cần làm ngay. Theo đó, dự định vào mùa khô 1975 ta sẽ đánh mạnh và giải phóng nhiều vùng đất bằng, đô thị ở Tây Nguyên và đưa dân ra vùng giải phóng, trong số đó thị xã Buôn Ma Thuột có 10 vạn dân sẽ được đưa ra. Do vậy, cần tính toán và lập phương án giải quyết đời sống cho số đồng bào này, nhất là bảo đảm về lương thực.

Thời điểm đó, đồng bào vùng căn cứ của cả tỉnh chưa đến 1 vạn người, cộng với lực lượng vũ trang địa phương, cán bộ, nhân viên hệ dân chính khoảng 3.000 người nữa nên mọi phương án, kế hoạch sản xuất, đời sống cho quân và của các cơ quan tỉnh như: sản xuất, lương thực, thương nghiệp, tài chính, y tế, giáo dục... lúc đó cũng chỉ bảo đảm cân đối cho số người này. Vậy, làm thế nào để thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu với quy mô gấp 10 lần, lại trong hoàn cảnh còn chiến tranh, bom đạn và địch chống phá quyết liệt… là bài toán khó đặt ra.

“Mặc dù khó khăn là vậy, tuy nhiên, được tham gia vào việc trọng đại, lại biết được triển vọng sắp tới đã thôi thúc chúng tôi cố gắng mà làm... Gần giáp Tết Ất Mão 1975, không khí đã rất sôi động, rạo rực. Để chuẩn bị “ra phía trước” cho trận đánh lớn, một số nơi trong lực lượng vũ trang, cán bộ dân chính đã cho anh em ăn Tết trước với đầy đủ bánh chưng, rau, thịt, bánh kẹo… Mọi người quây quần bên nhau tâm tình, kể chuyện quê hương, rồi bàn luận, đoán định về những nhiệm vụ mới; nhưng chưa ai đoán được rằng đây là cái Tết cuối cùng trong chiến tranh. Sau Tết, chúng tôi lại ráo riết thực hiện nhiệm vụ, tập trung lực lượng, kho hàng tại điểm A10 để chuẩn bị cho trận đánh lớn. Rồi trận đánh Buôn Ma Thuột oanh liệt đã tạo thời cơ chiến lược mới để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngay trong mùa Xuân năm 1975. Với nhiệm vụ của mình, chúng tôi cấp tập tiếp quản thị xã Buôn Ma Thuột, ổn định đời sống người dân, bắt tay vào xây dựng tỉnh sau ngày giải phóng…”, ông Nguyễn An Vinh xúc động kể.

Câu chuyện của những người từng trải qua năm tháng sục sôi ấy mãi là những minh chứng về lịch sử sống động, hào hùng. Là người lính công binh của Sư đoàn 470 trực tiếp tham gia mở đường trong chiến dịch Tây Nguyên, Đại tá Lê Xuân Bá, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 470 không giấu nổi niềm xúc động, tự hào khi nhớ về thời khắc giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Khi ấy ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, Sư đoàn 470 được giao nhiệm vụ mở đường vào Nam Tây Nguyên từ đường 19 (sân bay Đức Cơ) vượt suối Ia Đrăng, lên đèo Phượng Hoàng, vượt suối Ia Mơ, Ia Lốp, Ea H’leo, Đá Bằng, sông Sêrêpốk. Tiến hành khảo sát, ông cầm bản đồ trong tay, đi đến đâu quyết định tuyến đến đó. Giai đoạn đó, đơn vị được trang bị xe máy, máy ủi, xe san gạt, xe ben, téc nước, xe lu, thi công rầm rộ ban ngày (vì sau Hiệp định Paris 1973, địch giảm đánh phá). Khó khăn nhất là những đoạn làm phà, phương tiện vượt sông Sêrêpốk cho các xe đi qua. Từ việc tìm ra phương án, đến cách làm, nhân sự xẻ ván, rèn đinh như thế nào đều là những việc cần tính toán kỹ.

Đại tá Lê Xuân Bá hồi tưởng: “Với quyết tâm chính trị rất cao, tự mày mò, dùng phương tiện thô sơ, chúng tôi đã hạ gỗ ven sông để xẻ; rồi lại cắt cử người vào các đồn địch mà ta vừa giải phóng dọc đường 19 tỉnh Gia Lai để thu cột dây thép gai đưa về rèn đinh ghép ván; rồi học cách trát mạch khi ghép thuyền… Cứ như thế, biến không thành có, biến khó thành lợi, dám nghĩ, dám làm, đoàn kết, đồng lòng, thi công khẩn trương, chạy đua với thời gian để đóng được 3 chiếc thuyền có trọng tải 15 tấn ghép thành phà chở ô tô, lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược qua sông...”.

Cũng từ đây, tuyến đường chi viện chiến lược Đông Trường Sơn tiếp tục được mở sâu vào các địa bàn Nam Tây Nguyên. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bến phà Sêrêpốk là nơi tiếp nhận vận chuyển vũ khí, cơ sở vật chất vào tuyến chi viện cho chiến lược đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Đặc biệt là bảo đảm cầu phà, bảo đảm hậu cần kỹ thuật, cơ động lực lượng binh đoàn chủ lực hành quân thần tốc thực hiện tiến công trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Và đây cũng là một trong những trọng điểm địch đánh phá ác liệt, khiến 57 chiến sĩ của Trung đoàn 4 công binh và Tiểu đoàn Bộ binh 21 thuộc Sư đoàn 470 đã anh dũng hy sinh…

Đặc biệt, để chuẩn bị giải phóng Buôn Ma Thuột, Sư đoàn 470 còn được giao nhiệm vụ mở một con đường chiến dịch từ Ea Súp, Buôn Đôn, kéo dài tới Cư M’gar. Vào gần thị xã Buôn Ma Thuột, địa hình càng trống trải, dân cư đi lại nhiều, dễ bị lộ, đơn vị phải mở đường qua những cánh rừng có nhiều cây to, nhiều khe suối. Để bảo đảm bí mật, khi còn cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 20 - 25 km, đơn vị mở đường từ ngoài vào, làm đến đâu ngụy trang đến đó, những gốc cây to gần nương rẫy của dân chỉ cưa ¾ thân sát mặt đất rồi xóa dấu vết, phần còn lại sẽ được cưa ngay trước giờ nổ súng mở màn chiến dịch; các ụ đất lớn, ụ mối được đào lỗ tra sẵn thuốc nổ, sẵn sàng đợi lệnh phát hỏa san phẳng; đồng thời tổ chức đội hình công binh hộ tống xe tăng. Ngày 10/3/1975 đánh chiếm Buôn Ma Thuột, theo yêu cầu tác chiến chiến dịch, đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm cho đội hình binh chủng hợp thành cơ động tiến công địch, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột…

Với thành tích đặc biệt trong chiến đấu, ngày 3/6/1976, Sư đoàn 470 và Trung đoàn 4 công binh được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 9/12/2013, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận Bến phà vượt sông Sêrêpốk, tỉnh Đắk Lắk là Di tích quốc gia đặc biệt…

Lan Anh


Ý kiến bạn đọc


(Video) Cho biên cương mãi xanh!
Vượt lên nỗi nhớ gia đình, nhớ Tết quê hương, những người lính “quân hàm xanh” luôn nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ giữ bình yên biên giới quốc gia để nhân dân được vui Xuân, đón Tết an toàn.