Multimedia Đọc Báo in

Mãi mãi Hoàng Sa trong lòng nước Việt

08:05, 28/08/2025

Với những cứ liệu lịch sử và hồi ức của các nhân chứng, chúng ta luôn khẳng định, quần đảo Hoàng Sa từ trước đến nay thuộc về Việt Nam.

Những chứng cứ pháp lý

Hàng trăm năm trước, những con tàu thuộc hải đội Hoàng Sa của chúa và vua Triều Nguyễn đã vượt sóng to gió cả hướng ra Biển Đông để khai thác sản vật và mở rộng bờ cõi. Hoạt động của thủy quân Triều Nguyễn là bằng chứng quan trọng về việc xác lập và thực thi quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Trong quá trình tìm kiếm tư liệu từ Trung tâm lưu trữ quốc gia 4, chúng tôi đã sao lục nhiều tài liệu khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

Cờ Tổ quốc tung bay trên đảo Lý Sơn.

Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát có chép: “Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là “vạn lý Trường Sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba... Buổi quốc sơ khai đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào. Hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”. Thời các chúa đã cho lập hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ bảo vệ và khai thác tài nguyên trên các đảo.

Sang thời các vua Triều Nguyễn, Hoàng Sa và Trường Sa còn được triều đình quan tâm hơn. Ngoài hải đội Hoàng Sa, nhà Nguyễn đã cho xây dựng ở hai quần đảo trên một số công trình như: chùa chiền, miếu thờ, bia xác lập chủ quyền. Đến năm 1816, thủy quân của vua Gia Long đã kiểm soát toàn bộ Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Đến đời vua Minh Mạng, Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) cũng chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ “Vạn lý ba bình” (tức là: muôn dặm sóng êm). Cồn Bạch Sa có chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới sai cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) cũng chép: “Bộ Công tâu: “Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi cũng chưa rõ ràng. Hằng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng Hoàng Sa. Khi thuyền đi đến phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ...”. Vua y lời tâu, sai đội suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng lệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”…

Tiếp thời Nguyễn, đến thời Tourane nhượng địa (tên gọi 62 năm Đà Nẵng thuộc Pháp), sau Hòa ước Patenôtre 1884, với tư cách đại diện cho nhà nước An Nam về đối ngoại, Cộng hòa Pháp tiếp tục khẳng định chủ quyền của nước Việt tại quần đảo Hoàng Sa. Hoàng Sa lúc này vẫn trực thuộc địa giới tỉnh Quảng Ngãi và sau đó là Thừa Thiên với tên gọi Đại lý hành chính Hoàng Sa mà cách của người Pháp ghi trên bản đồ là Délégation des Paracels.

Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp bàn giao cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam quyền quản lý Hoàng Sa. Ngày 20/10/1951, sau Hội nghị Francisco, Thủ hiến Trung phần Phan Văn Giáo đã ký tư văn mật số 1403-VP/PC/M gửi Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam đề nghị sáp nhập đảo Hoàng Sa và Tây Sa vào Đà Nẵng. Đến ngày 21/10/1969, giải pháp kéo Hoàng Sa vào đất liền chính thức được thực thi bằng một nghị định của chế độ cũ. Cũng chính văn bản này đã sáp nhập Hoàng Sa vào xã Hòa Long, thuộc quận Hòa Vang, Đà Nẵng. Suốt thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam đã xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa bằng các tổ chức hành chính, dân sự và quân sự cho đến những ngày đầu tháng 1/1974, trong trận hải chiến không cân sức giữa hải quân chế độ cũ với lực lượng quân đội hùng hậu của Trung Quốc, Hoàng Sa thất thủ.                        

Sau ngày nước nhà thống nhất, ngày 11/12/1982, Chính phủ Việt Nam chính thức quyết định thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Tiếp đó, Nghị định số 07/1997/NĐ-CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ban hành ngày 23/1/1997 về việc công nhận Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương thì Hoàng Sa là một huyện thuộc thành phố này. Hiện nay, Hoàng Sa là đặc khu thuộc TP. Đà Nẵng.

Ký ức của các nhân chứng

Tôi đã từng gặp những con người với những công việc cụ thể trong những tháng ngày họ sống và làm việc ngay trên quần đảo Hoàng Sa thân thương, trước 1974. Đối với họ, tình yêu Hoàng Sa không chỉ là tình yêu đối với một phần đất đai máu thịt của Tổ quốc mà còn là những ký ức, xúc cảm không thể mờ phai trong cuộc đời mình.

Đó là ông Trần Hữu Cát (SN 1921), nhân viên khí tượng làm việc tại Trung tâm khí tượng Hoàng Sa từ năm 1940 đến 1945. Hay ông Võ Như Dân (SN 1937), nhân viên khí tượng tại Hoàng Sa theo chế độ luân phiên ba tháng một lần từ năm 1956 đến 1969; ông Trần Huynh (SN 1933), nhân viên khí tượng tại Hoàng Sa theo chế độ luân phiên ba tháng một lần từ năm 1964 đến 1969…  

Bờ biển Lý Sơn.

Với họ, Hoàng Sa chưa bao giờ cách xa. Ông Nguyễn Văn Cúc hồi tưởng: “Tôi được điều đi Hoàng Sa để khảo sát, sửa chữa và xây thêm bể ngầm chứa nước mưa, lấy nước ngọt phục vụ cho cả quần đảo. Tôi ra Hoàng Sa ba lần, lần đầu là đầu năm 1973. Lúc tàu gần đến đảo, tôi thấy lâng lâng khó tả vì sắp đặt chân lên vùng đất linh thiêng. Ở trên đảo một ngày, tôi cùng năm người nữa đi tham quan đảo chim, đây là cảnh tượng làm tôi thích thú và ngạc nhiên nhất khi ở Hoàng Sa. Trên đảo có vô số chim và con vích đẻ trứng…”.

Ông Võ Như Dân tả lại: “Hòn đảo nơi tôi làm việc có bốn cái lô cốt, một cái miếu Bà xây hướng về Đà Nẵng, một ngôi đền, trong đảo có bốn cái nhà ở, một nhà nguyện, nhà bếp, giếng nước. Bên khí tượng có năm người, bên lính trên 20 người…”. Còn ông Nguyễn Văn Dữ, một trong những binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tham gia công vụ ở Hoàng Sa nhớ lại: “Ấn tượng đầu tiên về Hoàng Sa trong tôi là bãi cát trải dài như mặt thảm khổng lồ và sạch đến vô cùng. Từ Hoàng Sa, phóng mắt ra bốn phía là một vùng biển xanh mênh mông như ngọc. Khi tôi đứng nhìn về hướng tây, thấp thoáng có những hòn đảo khác…”.

Còn ông Nguyễn Văn Đức, người được giao nhiệm vụ Đảo trưởng Hoàng Sa, tàu cập đảo ngày 14/10/1969, bồi hồi ký ức: “Mổ heo cúng đảo xong, tôi đi quan sát một vòng quanh đảo. Trên đảo không khí rất ấm áp và dễ chịu với những bãi cát mịn dọc bờ biển trắng phau. Ngay tại bờ biển, có một nghĩa địa chôn những người đã mất khi làm nhiệm vụ trên đảo. Kế nghĩa địa là miếu Bà, trong miếu thờ Phật Quan Âm. Trung tâm đảo có một tòa nhà chính và kế bên là nhà khí tượng…”.             

* * *

Hàng trăm năm trước, cha ông ta từng vượt sóng gió trùng khơi đi xác lập chủ quyền Tổ quốc. Hôm nay, những con tàu mỗi sáng vẫn phấp phới lá cờ đỏ sao vàng hướng về Hoàng Sa, mỗi người dân Việt Nam đều mang trong mình tình yêu vô bờ bến và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc…

Uông Thái Biểu     


Ý kiến bạn đọc


(E-Magazine) Sầu riêng Krông Pắc – Từ vườn vươn ra thế giới
Krông Pắc – vùng đất từng vang danh với những đồn điền cà phê, nay lại được biết đến nhiều hơn bởi một “ngôi sao mới” - sầu riêng, loại trái cây “vua” của vùng nhiệt đới. Sau hơn hai thập kỷ, Krông Pắc đã trở thành “thủ phủ” sầu riêng của Đắk Lắk, mang theo khát vọng nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường thế giới.